HISTÓRIA DO NOSSO PAÍS
As pessoas têm que conhecer a nossa história,
Para a parede original do país do Vietnã.
Por mais de quatro mil anos,
Ancestrais brilhantes, irmãos harmoniosos.
Hong Bang é a nossa pátria.
Nosso país naquela época se chamava Van Lang.
Minha juventude é muito gloriosa,
Filhos de Phu Dong ecoam para sempre.
Embora ainda não tivesse dezenove anos,
Tome medidas para salvar o país e eliminar as espécies ímpias.
Um Duong Vuong é Hung Vuong,
O nome nacional Au Lac governou o povo.
Trieu Da é um sábio,
O nome nacional do Vietnã do Sul governou o povo por cinco gerações.
A China depende de tantas pessoas,
Puxando tropas para oprimir a raça vietnamita.
O exército chinês está cheio de pessoas gananciosas,
Meu povo está disposto a servi-lo?
Hai Ba Trung tem um grande talento,
Levante a bandeira da insurreição para matar pessoas perversas,
Prepare-se para restaurar Giang san,
O longo aroma esculpiu a pedra dourada do nosso país.
A província de Thanh Hoa tem uma senhora,
O nome dele é Trieu Au, ele está na casa dos vinte anos,
O talento é mais corajoso que as pessoas,
Comece o exército para salvar o país para sempre.
Nossas mulheres não são comuns,
Vencendo o Oriente, desbravando o Norte como exemplo de vida,
Por quase seiscentos anos,
Não somos unidos pelos aldeões.
Herói em vez do Sr. Ly Bon,
Talento e artes marciais, mais fortes que milhares de pessoas,
Bata no navio para persegui-lo.
Estabeleceu a Dinastia Ly por sessenta anos consecutivos.
Porque Ly budista é estúpido,
Deixe a China invadir nosso país novamente.
Tenha pena das pessoas pobres e miseráveis,
O Sr. Mai Hac De se destacou para lutar contra os chineses,
Porque a solidariedade do povo não é profunda,
Portanto, falhe algumas vezes antes.
Ngo Quyen nasceu em Duong Lam,
Salve as pessoas da areia de milhares de anos.
Na época dos Doze Apóstolos,
As quatro direções estão tumultuadas, todos os povos são pobres.
A caverna Hoa Lu tem Tien Hoang,
Levante-se para construir a dinastia Dinh.
Talentoso na construção de um negócio,
Para o rei Phoe De, apenas duas vidas.
Le Dai Hanh subiu ao trono.
Derrote o exército Song e rechace Siam City.
Para as fúrias da tirania,
Quando ele nasceu, sua carreira foi quebrada.
Gong Uan é uma pessoa extraordinária,
Construiu a dinastia Ly para governar nosso país.
Expandindo a cultura do país,
Construir diques para manter os campos e casas para as pessoas.
Ly Thuong Kiet é um sábio,
Perseguiu o exército Song e destruiu o exército siamês.
A velhice desafia o mérito,
Mas o patriotismo leal não desaparece.
O nome da família Ly foi transmitido por nove gerações.
Duzentas e dezesseis cinco horas vão derreter.
A Dinastia Tran governou Giang San.
Paz no país, derrotando o inimigo lá fora,
Soldados militares Nguyen são bons generais:
Você não pode vencê-lo, estendendo-se pela Ásia, Europa,
Ocupar metade da Europa,
Ocupar Goryeo, tomar o vasto país chinês,
Desejando desesperadamente dominar nosso país,
Cinquenta mil soldados cruzaram a fronteira,
A Marinha seguiu o tanque rebocado,
Duas linhas circundam Tonkin como nen.
Nosso povo pode suportar a covardia,
Consenso, unir forças para perseguir a China.
O Sr. Tran Hung Dao é o líder,
Usando táticas de guerrilha para destruir a China,
Grandemente um prêmio Bach Dang,
Os mil outonos brilham como um rio de glória,
Duas vezes destruiu o exército Yuan,
Fazendo o navio ficar apavorado.
Quoc Toan é um jovem talentoso.
Apenas dezesseis anos de idade, lutando por dinheiro,
Várias vezes derrotou o exército Yuan,
Foi promovido a general governante do exército.
Que herói,
As crianças sul-vietnamitas devem seguir o exemplo.
Durante a vida de Tran Van, ele era bom em artes marciais.
Além das pessoas prósperas, na dinastia sábia.
Doze gerações são glorificadas,
Em Tran Phe De, seu país estava em declínio.
Pai e filho de Ho Quy Ly,
Mate o rei para usurpar o trono por um período de sete anos.
A situação no país não é calma,
Quanto tempo leva para os navios invadirem e manterem o poder?
Quanta riqueza de pérolas,
Eles vasculharam e trouxeram de volta para um navio limpo.
Revolta de Le Loi Lam Son,
Embora poucos generais sozinhos não reclamassem.
Algum rio phen Nhi montanha Lam,
Espada de sela Norte, Sul descarada.
Contemple, Chi Lang, Chi Lang,
Derrote vinte mil soldados Ming em pedaços.
Dez anos de carreira completados,
Nosso país está fora de perigo.
Pois o povo se une com entusiasmo,
Deve restaurar o rio Lac Hong rapidamente.
O bom rei tinha Le Thanh Tong,
Expandir o reino foi sábio novamente.
Cem anos se passaram para o palácio real,
Mac Dang Dung se enfureceu para ocupar o trono.
Agora a água estava turbulenta,
Le Nam, Mac Bac fazem fendas duplas em San Ha,
Setenta anos de calamidade se passaram.
No final de sua décima sexta vida, Macda entrou em declínio.
Da décima sexta vida em diante,
King Le e Lord Trinh se dividiram por muito tempo.
Nguyen Nam, luta de Trinh Bac,
Ver as pessoas sofrendo é de partir o coração.
As pessoas têm heróis,
Os irmãos Nguyen Nhac eram famosos na região de Tay Son.
Estabelecer capital em Quy Nhon,
Derrote Trinh e Nguyen, salve o povo da ilha.
O Le também perdeu seus direitos,
Trezentos e sessenta anos se passaram desde o rei.
Nguyen Hue é um homem extraordinário,
Várias vezes para lutar contra os invasores siameses e chineses,
Ele tem grande força de vontade,
Nosso povo se conhece com um só coração.
Portanto, mesmo que a China faça o mal,
Nosso povo ainda mantém seu país de origem.
O general Tay Son tinha uma mulher,
O sobrenome original de Bui é Thi Xuan.
A mão do governador de três braços,
Lute mais do que algumas batalhas, o inimigo fica paralisado.
Gia Long interveio novamente,
Perseguido por Tay Son, fugiu para o exterior.
Eu não tinha talento sozinho,
Graças ao Ocidente para salvar, calcule todo o alívio.
Agora perdemos nosso país,
Também porque o rei Nguyen trouxe o Ocidente para sua casa,
É como carregar uma cobra para morder uma galinha,
A procissão de elefantes grossos é realmente estúpida.
A partir do Ano Novo,
O impulso de West causou um escândalo consigo mesmo.
No entanto, os reis da corte,
Eu não acho que sou sábio.
Agora nós perdemos nossa casa
Também por causa dos reis e oficiais estúpidos.
Ano da primeira década de Tu Duc,
Cochinchina caiu sob o controle dos invasores ocidentais.
Quinze anos depois desta batalha,
Trung Ky também morreu, Tonkin também derreteu,
Mil anos de brocado brocado,
O rei Nguyen trouxe mercadorias para o Ocidente!
Quanto mais o pecado é coberto, mais preenchido ele é.
Quanto mais você pensa sobre isso, mais amargo se torna.
Nosso país
Mais sobre o texto originalÉ necessário fornecer o texto original para ver mais informações sobre a tradução
Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ
tiên rực rỡ, anh em thuận hoà.
Hồng Bàng là tổ nước ta.
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang.
Thiếu niên ta rất vẻ vang,
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời.
Tuổi tuy chưa đến chín mười,
Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương.
An Dương Vương thế Hùng Vương,
Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân.
Triệu Đà là vị hiền quân,
Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.
Nước Tàu cậy thế đông người,
Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam.
Quân Tàu nhiều kẻ tham lam,
Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?
Hai Bà Trưng có đại tài,
Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian,
Ra tay khôi phục giang san,
Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta.
Tỉnh Thanh Hoá có một bà,
Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi,
Tài năng dũng cảm hơn người,
Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.
Phụ nữ ta chẳng tầm thường,
Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời,
Kể gần sáu trăm năm giời,
Ta không đoàn kết bị người tính thôn.
Anh hùng thay ông Lý Bôn,
Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người,
Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài.
Lập nên Triều Lý sáu mươi năm liền.
Vì Lý Phật Tử ngu hèn,
Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta.
Thương dân cực khổ xót xa,
Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu,
Vì dân đoàn kết chưa sâu,
Cho nên thất bại trước sau mấy lần.
Ngô Quyền quê ở Đường Lâm,
Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm.
Đến hồi Thập nhị sứ quân,
Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn.
Động Hoa Lư có Tiên Hoàng,
Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh.
Ra tài kiến thiết kinh dinh,
Đến vua Phế Đế chỉ kinh hai đời.
Lê Đại Hành nối lên ngôi.
Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành.
Vì con bạo ngược hoành hành,
Ra đời thì đã tan tành nghiệp vương.
Công Uẩn là kẻ phi thường,
Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta.
Mở mang văn hoá nước nhà,
Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.
Lý Thường Kiệt là hiền thần,
Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành.
Tuổi già phỉ chí công danh,
Mà lòng yêu nước trung thành không phai.
Họ Lý truyền được chín đời,
Hai trăm mười sáu năm giời thì tan.
Nhà Trần thống trị giang san,
Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài,
Quân Nguyên binh giỏi tướng tài:
Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu,
Tung hoành chiếm nửa Âu châu,
Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la,
Lăm le muốn chiếm nước ta,
Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ,
Hải quân theo bể kéo đi,
Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nen.
Dân ta nào có chịu hèn,
Đồng tâm, hợp lực mấy phen đuổi Tàu.
Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu,
Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang,
Mênh mông một giải Bạch Đằng,
Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh,
Hai lần đại phá Nguyên binh,
Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời.
Quốc Toản là trẻ có tài,
Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền,
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên,
Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung.
Thật là một đấng anh hùng,
Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.
Đời Trần văn giỏi võ nhiều,
Ngoài dân thịnh vượng, trong triều hiền minh.
Mười hai đời được hiển vinh,
Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi.
Cha con nhà Hồ Quý Ly,
Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên.
Tình hình trong nước không yên,
Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu,
Bao nhiêu của cải trân châu,
Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn.
Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,
Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn.
Mấy phen sông Nhị núi Lam,
Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng.
Kìa Tuý Động nọ Chi Lăng,
Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành.
Mười năm sự nghiệp hoàn thành,
Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan.
Vì dân hăng hái kết đoàn,
Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng.
Vua hiền có Lê Thánh Tông,
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành.
Trăm năm truyền đến cung hoàng,
Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi.
Bấy giờ trong nước lôi thôi,
Lê nam, Mạc bắc rạch đôi san hà,
Bảy mươi năm nạn can qua.
Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi.
Từ đời mười sáu trở đi,
Vua Lê, Chúa Trịnh chia vì khá lâu.
Nguyễn Nam, Trịnh Bắc đánh nhau,
Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng.
Dân gian có kẻ anh hùng,
Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn,
Đóng đô ở đất Quy Nhơn,
Đánh tan Trịnh, Nguyễn, cứu dân đảo huyền.
Nhà Lê cũng bị mất quyền,
Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương.
Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu,
Ông đà chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
Cho nên Tàu dẫu làm hung,
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.
Tướng Tây Sơn có một bà,
Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân,
Tay bà thống đốc ba quân,
Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là.
Gia Long lại dấy can qua,
Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.
Tự mình đã chẳng có tài,
Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dầy mả, thiệt là ngu si.
Từ năm Tân Hợi trở đi,
Tây đà gây chuyện thị phi với mình.
Vậy mà vua chúa triều đình,
Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoan.
Nay ta nước mất nhà tan
Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn.
Năm Tự Đức thập nhất niên,
Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây.
Hăm lăm năm sau trận này,
Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan,
Ngàn năm gấm vóc giang san,
Bị vua họ Nguyễn đem hàng cho Tây!
Tội kia càng đắp càng đầy,
Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Nước ta nhiều kẻ tôi trung,
Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương.
Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương,
Cùng thành còn mất làm gương để đời.
Nước ta bị Pháp cướp rồi,
Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng;
Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng
Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương.
Mấy năm ra sức Cần Vương,
Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên,
Giang san độc lập một miền,
Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành.
Anh em khố đỏ, khố xanh,
Mưu khởi nghĩa tại Hà thành năm xưa,
Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa,
Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn.
Kìa Yên Bái, nọ Nghệ An
Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu.
Nam Kỳ im lặng đã lâu,
Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây.
Bắc Sơn đó, Đô Lương đây!
Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn.
Xét trong lịch sử Việt Nam,
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.
Nhiều phen đánh bắc dẹp đông,
Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên.
Ngày nay đến nỗi nghèo hèn,
Vì ta chỉ biết lo yên một mình.
Để người đè nén, xem khinh,
Để người bóc lột ra tình tôi ngươi!
Bây giờ Pháp mất nước rồi,
Không đủ sức, không đủ người trị ta.
Giặc Nhật Bản thì mới qua,
Cái nền thống trị chưa ra mối mành.
Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh,
Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà.
Ấy là nhịp tốt cho ta,
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.
Người chúng ít, người mình đông
Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên.
Hỡi ai con cháu Rồng Tiên!
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.
Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu,
Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn.
Người giúp sức, kẻ giúp tiền,
Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.
Chúng ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh
Mai sau sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng
Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!
Trước Tây lịch
-2879 - Hồng Bàng
-111 - Tàu lấy nước ra lần đầu
Sau Tây lịch
40 - Hai Bà Trưng đánh Tàu
248 - Bà Triệu ẩu khởi nghĩa
544 - Vua Lý đánh Tàu
603 - Tàu lấy nước ta
939 - Vua Ngô khởi nghĩa
968 - Đời vua Đinh (12 năm)
981 - Đời vua Tiền Lê (29 năm)
1010 - Đời vua Hậu Lý (215 năm)
1073 - Lý Thường Kiệt đánh Tàu
1225 - Đời vua Trần (175 năm)
1283 - Trần Hưng Đạo đánh Tàu
1407 - Tàu lấy nước ta
1427 - Vua Lê khởi nghĩa
1543 - Đời vua Hậu Lê (360 năm)
1545 - Vua Lê Chúa Trịnh
1771 - Đời vua Tây Sơn (24 năm)
1789 - Vua Nguyễn Huệ đánh Tàu
1794 - Gia Long thông với Tây
1847 - Tây bắt đầu đánh nước ta
1862 - Vua nhà Nguyễn bắt đầu hàng Tây
1889 - Ông Đề Thám khởi nghĩa
1893 - Ông Phan Đình Phùng khởi nghĩa
1916 - Trung Kỳ khởi nghĩa
1917 - Thái Nguyên, Sầm Nưa khởi nghĩa
1930 - Yên Bái, Nghệ An khởi nghĩa
1940 - Bắc Sơn và Đô Lương khởi nghĩa
1941 - Nam Kỳ khởi nghĩa
1945 - Việt Nam độc lập
Để giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân, phát huy lòng tự hào về lịch sử vẻ vang của dân tộc, động viên toàn dân đoàn kết và tham gia Mặt trận Việt Minh làm cách mạng, giành độc lập cho Tổ quốc, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc trong thời gian hoạt động ở Cao Bằng đã sáng tác bài diễn ca Lịch sử nước ta theo thể thơ lục bát, gồm 210 câu và một bảng ghi “Những năm quan trọng” kèm theo. Bộ Tuyên truyền của Việt Minh xuất bản và phát xuống cơ sở vào tháng 2-1942.
Nội dung Lịch sử nước ta ca ngợi những trang sử vẻ vang của dân tộc từ thời Hồng Bàng dựng nước đến năm 1942 khi tác phẩm ra đời, ca ngợi sự nghiệp chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc, các anh hùng tiêu biểu. Qua tác phẩm, tác giả khẳng định truyền thống quý báu của dân tộc: yêu nước, đoàn kết, anh hùng. Truyền thống yêu nước đó đang được nhân dân tiếp tục phát huy trong giai đoạn chống thực dân Pháp với những tấm gương anh hùng tiêu biểu.
Tác phẩm viết bằng thể thơ lục bát, dễ đọc, dễ nhớ. Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, nó có tác dụng lớn trong việc tuyên truyền, giáo dục nhân dân, góp phần cổ vũ nhân dân đoàn kết, hăng hái tham gia cách mạng và tăng lòng tin vững chắc vào thắng lợi của cách mạng.
Nguồn:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (tập 3), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
2. Tổng tập Văn học Việt Nam (tập 38), NXB Khoa học Xã hội, 2000
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh xem bia ghi danh các Tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam (29-1-1960). Ảnh: Hochiminh.vn.
Todas as reações:
20 mil20 mil
Comentários
Postar um comentário